Các danh từ lịch sử, sử ký, sử học thường bị hiểu lầm và thường được sử dụng lẫn lộn. Chúng ta cần phân
biệt rõ rệt:
Lịch sử, là quá khứ và tât cả những gì đã xảy ra trong quá khứ. Người Đức dùng đanh từ Geschichte
đề chỉ định cả lịch sử và sử học; danh
từ này từ động từ geschehen
mà ra (geschehen có nghĩa là xây ra và geschichte là cái gì đã xảy ra). Nó bao gồm các biên cố và các hành vi của | con
người được coi là đáng ghi nhớ.
Sử ký,
là sự ghi chép lại quá khứ, nghĩa là tât cả những gì con người đã nói hay đã viết về quá khứ, hoặc, như Jacob BURCKHARDT | đã viết, “cái gì mà một thời đại cho là đáng ghi nhớ trong một thời đại khác”
Sử học,
là ngành học chuyên về sự ghi chép quá khứ. Về điểm này, các danh từ Pháp
histoire và Anh history .Sử học là phương pháp và
ngành học cho phép ta luyện nên
và lưu truyền lại cho các thệ hệ tới sau ký ức của các thời đại đã trôi qua. Sản
phẩm của ngành học này, là tất cả các văn phẩm chuyên về sự hiểu biết quá khứ.
Qua các định nghĩa sơ lược ở trên, chúng ta thấy rằng sử vừa là quá khứ, và cũng vừa là ký ức của
quá khứ. Một dân tộc không có lịch sử, hay
không biêt gì về lịch sử của mình, thật không khác gì một người không có
ký ức, không nhớ được
gì, bắt buộc phải lập lại những phát minh đã được thực hiện trong quá khứ, phải
giải quyêt những vần đề-đã được giải quyêt,
và cũng lại vấp
phải những lầm lẫn đã vấp
phải. Nều chúng ta thầy rằng một
dân tộc không có lịch sử nếu
không đạt tới được một trình độ văn minh
tương đối, thì chúng ta
cũng không thể quan niệm nổi một nến văn minh không có lịch sử. Cho nên mọi nền
đại văn minh trong lịch sử của nhân
loại đều thấy cẩn phải
ghi giữ lại ký ức của quá khứ.