Thành ngữ là bộ phận quan trọng trong vốn từ vựng của mỗi
ngôn ngữ. “Đó là một kho báu lưu giữ những trầm tích văn hoá đặc sắc và phong
phú của dân tộc”. Thành ngữ đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Trong ngôn ngữ học
nói riêng, thành ngữ tiếng
Việt mới được nghiên cứu về: cấu
trúc hình thức, ngữ nghĩa, cú pháp, tu từ, nguồn gốc hình thành và phát triển, cách
vận dụng thành ngữ, phân biệt thành ngữ với các đơn vị ngôn ngữ khác: fừ chớp,
tục ngữ, quán ieữ,... đối chiếu thành ngữ tiêng Việt với thành ngữ thuộc các ngôn
ngữ khác.
Mặc dù các nhà nghiên cứu khảo sát thành ngữ từ phương điện
và quan điểm khác nhau, nhưng có thể nhận thấy ý kiên thông nhất về đặc điểm của
thành ngữ tiêng Việt như sau: Thành ngữ
là một cụm từ (hoặc kết câu C - V) cổ định, có câu trúc bến chặt, có thể có vần
điệu. Thành ngữ tương đương với từ, thường được dùng để định danh các hiện tượng của hiện thực
và hoạt động trong câu với tư cách là một thành phần của câu. Tuy nhiên, tính cố
định của thành ngữ không phải là tuyệt đối. Nhiều thành ngữ có sự thay thế thành tố câu tạo nào đó, hoặc có sự thay đổi trật
tự của các thành tố, nhưng ý nghĩa thành ngữ về cơ bản vẫn không đổi, hoặc nếu
có thay đổi chút ít thì vẫn nhận ra được thành ngữ ở dạng gốc.
Về ý nghĩa, không kể loại thành ngữ so sánh (“đẹp như tiên”,
“bẩn như hủi”,....) các thành ngữ còn lại đều có nghĩa bóng, hoặc nghĩa biểu
trưng. Đó không phải là tổng ý nghĩa của các đơn vị cấu tạo nên thành ngữ. Chính phương thức ẩn
dụ đã tạo cho thành ngữ có nghĩa bóng, hoặc nghĩa biểu trưng này. Vì thể, loại thành ngữ này được gọi
là thành ngữ ẩn dụ hoá. Ví dụ: “ăn gió nằm Sương”, “ba cọc ba đồng“, “cơm gà cá
gỏi”, “đầu trâu mặt ngựa”, “xanh vỏ đỏ lòng”, v.v...
Còn nói về ẩn
dụ thì theo truyền thống, nó chỉ được coi là phương thức phát triển nghĩa mới của
từ hoặc sử dụng từ theo chức năng tu từ. Ở Việt Nam, cho đến nay, chưa có công
trình nào khảo sát và đánh giá hết được tầm quan trọng của ấn dụ đối với tư duy
và việc sử dụng ngôn ngữ hàng ngày, nhất là vai trò của ẩn dụ như một công cụ
tri nhận để ý niệm hoá các phạm trù trừu tượng trong nhận thức. Nói riêng, vấn
đề đặc trưng tư duy ngôn ngữ của người Việt qua ẩn dụ tri nhận trong thành ngữ
vẫn còn chưa được đặt ra. Bài viết này có thể được coi là sự khởi đầu cho việc
nghiên cứu thành ngữ tiêng Việt theo hướng tiếp cận nói trên. Các kết quả nghiên cứu sẽ góp phần phát triển
trào lưu nghiên cứu mới - Ngôn ngũ học trí nhận - đang cuốn hút sự quan tâm của
các nhà Việt ngữ học.